Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân Việt Nam XIII

Hội nghị Khoa học và Công nghệ (KH&CN) hạt nhân Việt Nam XIII (toàn quốc lần thứ 13) 

Hội nghị Khoa học và Công nghệ (KH&CN) hạt nhân Việt Nam XIII (toàn quốc lần thứ 13) (Vietnam Conference on Nuclear Science and Technology–VINANST), diễn ra từ ngày 7 đến 9/8/2019 tại Hạ Long, Quảng Ninh do Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ninh tổ chức.

Tham dự Hội nghị có Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Vũ Thị Thu Thủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Hòa Hiệp, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Khí tượng thủy văn Trần Hồng Thái, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam kiêm Trưởng Ban Tổ chức Hội nghị Trần Chí Thành. Về phía quốc tế có bà Jane Gerado Abaya – Giám đốc Phòng Hợp tác kỹ thuật khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA),  Phó Đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Sigaud và đại diện Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, bà Nina Palmer.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc phát biểu tại Hội nghị

Mở đầu phiên khai mạc VINANST-XIII, Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc đã xúc động nhớ lại sự kiện bom nguyên tử cách đây 74 năm trước ở Hiroshima và Nagasaki tại Nhật Bản. Thứ trưởng nhấn mạnh về vai trò của năng lượng nguyên tử (NLNT), mở ra thời đại mới cho nhiều quốc gia và cho cả nhân loại. Năng lượng nguyên tử đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới, ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị, địa lý và làm thay đổi nhiều cuộc sống tại các quốc gia. NLNT có vai trò lớn vì là công cụ ứng dụng nhưng cũng là vũ khí nguy hiểm. Đối với Việt Nam – một nước đang phát triển, Việt Nam chỉ sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, điều này đã được ghi trong các chính sách của Chính phủ Việt Nam. “Trước đây, khi điều kiện kinh tế của Việt Nam còn khó khăn, Việt Nam biết ơn các nước phát triển, đặc biệt là Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế đã hỗ trợ Việt Nam trong phát triển KH&CN hạt nhân. Ngày nay, kinh tế của Việt Nam đã phát triển nhanh, GDP tăng trung bình 6-7%/năm, trong đó có sự đóng góp rất hữu dụng của NLNT. Nhờ sự hỗ trợ của IAEA cũng như của các nước phát triển mà Việt Nam đã ứng dụng thành công KH&CN hạt nhân trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, y tế, hạt nhân, môi trường, công nghiệp” – Thứ trưởng Phạm Công Tạc cho hay.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc bày tỏ hy vọng Hội nghị này sẽ góp phần thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử tại Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói chung. Đây cũng là mục tiêu phát triển bền vững mà IAEA thúc đẩy và hỗ trợ trong nhiều năm qua, đặc biệt ở một quốc gia có các tổ chức nghiên cứu và triển khai đầy năng động như Việt Nam.

Thứ trưởng cũng mong muốn tại Hội nghị này, các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý trên thế giới sẽ chia sẻ những kinh nghiệm, nghiên cứu về vấn đề nguyên tử, hạt nhân cho các chuyên gia của Việt Nam. Đây cũng là dịp để các đại biểu bàn về những vấn đề có cấu trúc vi mô nhưng ích lợi mang lại cho chính dân tộc Việt Nam, cũng như cho tất cả mọi người là vô cùng to lớn.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Vũ Thị Thu Thủy phát biểu tại Hội nghị

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Vũ Thị Thu Thủy cho biết, Quảng Ninh là một tỉnh phía Đông Bắc của Việt Nam, có Vịnh Hạ Long là trung tâm du lịch của tỉnh và là điểm du lịch nổi tiếng của cả nước. Liên quan đến phóng xạ và hạt nhân, Quảng Ninh có một số cơ quan, tổ chức KH&CN, doanh nghiêp có hoạt động trong lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử, sử dụng nguồn phóng xạ và thiết bị bức xạ. Đó là các cơ sở điều trị, khám chữa bệnh, phòng bệnh, các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, Quảng Ninh tiếp giáp với biên giới, giáp nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc nên sẽ đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý, ứng phó với sự cố an toàn bức xạ hạt nhân. Trong nhiều năm qua, Quảng Ninh luôn được Bộ KH&CN, Viện NLNTVN tạo điều kiện, đồng hành, tạo cơ chế để Quảng Ninh làm tốt công tác quản lý, phát triển tốt các ứng dụng năng lượng nguyên tử. Thời gian tới, Quảng Ninh cam kết chỉ đạo các đơn vị, doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế thực hiện tốt công tác quản lý an toàn nguồn phóng xạ và thiết bị bức xạ theo quy định.

Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam Trần Chí Thành chia sẻ tại Hội nghị

Bà Jane Gerado Abaya – Giám đốc Phòng Hợp tác kỹ thuật khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) phát biểu tại Hội nghị

Đại diện Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE-US), bà Nina Palmer nhấn mạnh, thị trường năng lượng toàn cầu đạt được nhiều tiến bộ thông qua việc hợp tác với Việt Nam cũng như thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam và đáp ứng yêu cầu năng lượng của Việt Nam. Bà Nina Palmer cũng đã giới thiệu về Văn phòng Năng lượng hạt nhân OENE của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, với sứ mệnh thúc đẩy việc sử dụng năng lượng hạt nhân đáp ứng nhu cầu về nguồn cung năng lượng của Hoa Kỳ, những vấn đề về môi trường cũng như đáp ứng nhu cầu về an ninh năng lượng, tập trung thúc đẩy những công nghệ tiên tiến về năng lượng, hỗ trợ mục tiêu của Chính phủ trong cung cấp nguồn lực trong nước về năng lượng, đảm bảo giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính. DOE coi đây là vấn đề mang tính ưu tiên phát triển hệ thống lò phản ứng, cũng như cơ sở hạ tầng hạt nhân, qua đó đáp ứng những vấn đề vượt qua rào cản về chi phí, kỹ thuật, yêu cầu về an toàn, bảo an, bảo mật.

Hội nghị VINANST-XIII lần này có trên 430 đại biểu tham dự, trong đó có khoảng 75 đại biểu nước ngoài là các giáo sư, chuyên gia từ các Tổ chức, Viện nghiên cứu và các trường đại học lớn trên thế giới; và có 355 đại biểu đến từ các đơn vị trong nước. Tại Hội nghị đã có 235 báo cáo, trong đó có 168 báo cáo được trình bày (Oral presentations) tại Phiên toàn thể và các Tiểu ban chuyên môn, và 67 báo cáo dán bảng (Posters). Các tiểu ban chuyên môn bao gồm:

Tiểu ban A: Lò phản ứng, Điện hạt nhân và Đào tạo nguồn nhân lực;

Tiểu ban B: Vật lý hạt nhân, Số liệu hạt nhân, Máy gia tốc và Phân tích hạt nhân;

Tiểu ban C: Ghi đo bức xạ, An toàn bức xạ và Quan trắc môi trường;

Tiểu ban D1-D2: Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong y tế, công nghiệp và các lĩnh vực khác;

Tiểu ban D3-D4: Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong nông nghiệp và Ứng dụng công nghệ bức xạ;

Tiểu ban E: Hóa phóng xạ, hóa bức xạ và Hóa học hạt nhân, Chu trình nhiên liệu, Công nghệ vật liệu hạt nhân, Quản lý chất thải phóng xạ.

Các báo cáo viên trình bày tại các Tiểu ban

Vào ngày 7/8, tại Phiên toàn thể của Hội nghị có 15 bài trình bày của các diễn giả khách mời là các nhà khoa học và chuyên gia hàng đầu đến từ các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, các Bệnh viện và các tổ chức uy tín trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Việt Nam và Quốc tế. Năm nay, Viện NLNTVN phối hợp với IAEA tổ chức Hội thảo về “Ứng dụng Kỹ thuật hạt nhân và đồng vị cho nghiên cứu về nước và môi trường” được tổ chức vào chiều ngày 7/8 với 4 bài tham luận của các đại biểu là các chuyên gia Quốc tế đến từ IAEA, Canada và Việt Nam.

Tại Phiên toàn thể, TS. Jane Gerado-Abaya, Giám đốc, Phòng hợp tác kỹ thuật khu vực châu Á – Thái Bình Dương,  IAEA trình bày về “Đóng góp của Khoa học và công nghệ hạt nhân cho sự Phát triển bền vững”. Viện trưởng, Viện NLNTVN Trần Chí Thành trình bày về Hiện trạng nghiên cứu và phát triển của VINATOM và dự án lò nghiên cứu mới tại Việt Nam. Lần thứ hai tham dự Hội nghị thuộc ngành NLNT tại Việt Nam, đại diện của Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) tại Geneva, TS. Raghunath Sahoo, trình bày về Vụ nổ lớn, nổ nhỏ và nổ mini: Tạo vật chất với thí nghiệm ALICE trên Máy gia tốc lớn đối chùm (LHC) của Trung tâm hạt nhân Châu Âu (CERN). Đại diện của Viện nghiên cứu Hóa-Lý RIKEN, Nhật Bản, TS. Pieter Doornenbal, trình bày về Những thành tựu đạt được và hướng nghiên cứu trong tương lai qua báo cáo “Khám phá vùng hạt nhân lạ chưa được biết đến tại RIKEN”. GS. Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện NLNTVN trình về vấn đề Lan truyền phóng xạ đến Đông Nam Á từ tai nạn điện hạt nhân giả định ở Trung Quốc theo gió mùa đông bắc.

Trong lĩnh vực nghiên cứu về vật lý hạt nhân, GS. Đào Tiến Khoa, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân, Viện NLNTVN trình bày về Phản ứng nhiệt hạch, bắt giữ neutron phát xạ, sao neutron và nguồn gốc của các nguyên tố. GS. Peter Egelhof đến từ GSI, Darmstadt, Đức trình bày về Cấu trúc của các hạt nhân lạ thông qua phản ứng trực tiếp: Các nghiên cứu với chùm tia phóng xạ được lưu giữ và với bia hoạt. Các kết quả nghiên cứu, tính toán khái niệm mới nhất về nơtron cho lò phản ứng nghiên cứu đa mục tiêu thông lượng cao nhằm phục vụ cho Dự án xây dựng trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ hạt nhân mới trong tương lai của Việt Nam được đại điện cho nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, ThS. Nguyễn Kiên Cường, trình bày tại Hội nghị. Tiếp theo là bài trình bày của GS. Sheldon Lansberger, Đại học Texas, Hoa Kỳ về độ phóng xạ trong lĩnh vực thăm dò dầu khí.

Mở đầu phiên toàn thể của buổi chiều, GS. Mai Trọng Khoa, Bệnh viện Bạch Mai, Việt Nam trình bày trong lĩnh vực Y tế, về Thực trạng ứng dụng bức xạ ion hóa trong chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư và một số bệnh lý khác tại Việt Nam. Báo cáo cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia ứng dụng thành công một số kỹ thuật hiện đại, tiên tiến có sử dụng bức xạ ion hóa trong chẩn đoán và điều trị ung thư. GS. Peter Levai, đến từ MTA WIGNER RCP, Hungary đề cập đến Những câu hỏi mở trong lĩnh vực Vật lý hạt nhân đầu thế kỷ 21. Đến từ Đại học Công nghệ Chalmers, Thụy Điển, GS. Imre Pázsit trình bày về Lý thuyết nhiễu neutron và ứng dụng trong an toàn và chuẩn đoán nhiễu trong lò phản ứng nghiên cứu và năng lượng. GS. Masaki Saito đến từ TITECH và GS. Shinichi Nakayama đến từ JAEA, Nhật Bản trình bày về kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu trong đào tạo an toàn và an ninh hạt nhân toàn cầu cũng như chia sẻ về kinh nghiệm Nghiên cứu và phát triển của JAEA trong khắc phục hậu quả môi trường và tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân ở Fukushima.

Trong lĩnh vực nghiên cứu bức xạ, PGS.TS. Nguyễn Quốc Hiến, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai CNBX, Viện NLNTVN trình bày Tổng quan về ứng dụng công nghệ xử lý bức xạ tại Việt Nam. Trong buổi Hội thảo IAEA, TS. Leonard I. Wassenaar, Trưởng phòng, Phòng Khoa học và Ứng dụng hạt nhân, IAEA trình bày về vấn đề: Xây dựng và áp dụng các phương pháp phân tích đồng thời 3 đồng vị của phân tử nitrate trong đánh giá ô nhiễm dinh dưỡng trong nước ngầm và nước bề mặt. GS. Keith A. Hobson, Đại học Western Ontario, Canada giới thiệu bài nói về Sử dụng các đồng vị bền để theo dấu của động vật di trú. TS. Trịnh Anh Đức, Trung tâm Đào tạo hạt nhân, Viện NLNTVN trình bày về việc Đánh giá tác động của con người đến đồng bằng sông Hồng bằng việc sử dụng các đồng vị bền trong nước và TS. Đặng Đức Nhận, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân, Viện NLNTVN trình bày về Kỹ thuật đồng vị kết hợp với phương pháp hóa học trong nghiên cứu điều tra nguồn tài nguyên nước khoáng – nóng.

Phiên bế mạc của Hội nghị đã được diễn ra vào chiều ngày 09/08/2019. Đại diện các tiểu ban chuyên môn đã lần lượt báo cáo các kết quả chính và định hướng nghiên cứu trong thời gian sắp tới.

Đại diện Tiểu ban A, PGS. TS. Nguyễn Nhị Điền, đã trình bày định hướng nghiên cứu như sau:

Đối với nhà máy điện hạt nhân:

  • Nghiên cứu an toàn hạt nhân cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm về dòng chảy hai pha và đối lưu tự nhiên (tập trung vào xây dựng hệ thực nghiệm);
  • Tiếp tục nghiên cứu và sử dụng các chương trình mô phỏng để tính toán neutron, thủy nhiệt, phân tích an toàn (tất định và xác suất), cũng như các quá trình cơ học, hóa học và vật lý của nhà máy điện hạt nhân;
  • Nâng cao năng lực nghiên cứu và phân tích sự cố nghiêm trọng và quản lý tai nạn của nhà máy điện hạt nhân.
  • Nghiên cứu về các công nghệ của lò phản ứng mô đun nhỏ và các nhà máy điện hạt nhân nổi;

Đối với lò nghiên cứu:

  • Tiếp tục nghiên cứu thiết kế (neutron và thủy nhiệt) cho lò phản ứng hạt nhân mới của dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ hạt nhân, chú trọng đến cả vận hành an toàn và sử dụng hiệu quả lò phản ứng nghiên cứu (đường dòng, các phòng thí nghiệm,…);
  • Tiếp tục nghiên cứu vật lý hạt nhân, vật lý neutron, thủy nhiệt và thực hiện các thí nghiệm trên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt;
  • Tham gia vào nghiên cứu khả thi phục vụ dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ hạt nhân mới.

Đối với vấn đề hợp tác quốc tế:

  • Liên bang Nga: Thiết kế lò phản ứng nghiên cứu mới, trao đổi thông tin (giáo dục và đào tạo) về việc triển khai dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ hạt nhân mới.
  • Nhật Bản: Các thí nghiệm về an toàn thủy nhiệt của nhà máy điện hạt nhân bao gồm cả giáo dục và đào tạo
  • Hàn Quốc: Cả phân tích an toàn và thí nghiệm về an toàn thủy nhiệt của nhà máy điện hạt nhân; tính toán thiết kế lò phản ứng nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực.

Đại diện Tiểu ban B, TS. Hồ Mạnh Dũng đã đánh giá hội nghị lần này được tổ chức khá hoàn hảo, chất lượng Hội nghị đã nâng tầm khu vực và quốc tế. Các kết quả chính của Tiểu ban B tập trung như: Trong Vật lý hạt nhân, tiếp tục các hướng nghiên cứu truyền thống, tập trung vào nghiên cứu phản ứng (p,n) trong lĩnh vực vật lý thiên văn; Với số liệu hạt nhân: Cần đẩy mạnh khai thác số liệu hạt nhân hiện có; Trong phân tích hạt nhân, máy gia tốc đã hình thành nên các nhóm nghiên cứu để phát triển nên các phương pháp phân tích, cũng như tập trung nghiên cứu và khai thác các máy gia tốc, ngoài ra trong lĩnh vực khoa học vật liệu cũng như trong lĩnh vực mô phỏng các nghiên cứu không chỉ tập trung cho nghiên cứu cho lò phản ứng nghiên cứu mà còn cho khoa học vật liệu và y học vật lý.

TS. Nguyễn Hào Quang, đại diện Tiểu ban C đã đưa ra định hướng nghiên cứu của các lĩnh vực thuộc Tiểu ban như sau:

Tính toán và mô phỏng phát thải chất phóng xạ:

  • Phát tán trong môi trường khí: Tiếp tục nghiên cứu để nâng cao khả năng dự đoán sự lan truyền nhanh của phóng xạ; Kết nối các kết quả mô phỏng với kế hoạch quan trắc và ứng phó sự cố cho một số kịch bản cụ thể.
  • Nghiên cứu về đánh giá phát tán phóng xạ trong môi trường biển (Đang thực hiện qua chương trình KC.05.16-20);

Đo và phân tích môi trường phóng xạ:

  • Phát triển và hoàn thiện các kỹ thuật mới để làm giàu đồng vị phóng xạ trong các mẫu môi trường;
  • Phát triển các thiết bị/ kỹ thuật cho việc đo online.

Trong lĩnh vực y tế thuộc Tiểu ban D1, TS. Trần Ngọc Toàn đã trình bày các định hướng nghiên cứu và ứng dụng như sau:

  • Áp dụng các kỹ thuật sử dụng SPECT – CT và PET– CT để chẩn đoán lâm sàng cho các bệnh: ung thư, tim mạch và thần kinh.
  • Thực hiện QA/QC trong toàn bộ quá trình chẩn đoán y học hạt nhân (bao gồm SPECT – CT,  PET– CT) và phương pháp chữa bệnh bằng cách dùng tia X,  kiểm toán độc lập nên được chú ý;
  • Mở rộng năng lực để tăng số lượng các nghiên cứu viên vật lý y tế trong xạ trị ung thư;
  • Mở rộng việc sản xuất các dược phẩm chuẩn đoán mới khác với nhãn FDG- F-18 sử dụng cho PET/CT;

Đại diện Tiểu ban D2, KS. Nguyễn Hữu Quang đã đưa ra định hướng nghiên cứu trong thời gian tới với hướng ưu tiên:

  • NDT, kỹ thuật hạt nhân trong khảo sát dây chuyền công nghiệp
  • Kỹ thuật đồng vị trong sản xuất và sản phẩm nông nghiệp
  • Kỹ thuật đồng vị trong tài nguyên nước ở Tây Nguyên, Đồng bằng Nam bộ, Bắc bộ và Trung bộ
  • Kỹ thuật hạt nhân trong nghiên cứu biến đổi khí hậu.

Với tiểu ban D3-D4, TS. Trần Minh Quỳnh trình bày các định hướng nghiên cứu như sau:

  • Thiết kế, sản xuất thiết bị chiếu xạ gamma để thúc đẩy ứng dụng của công nghệ bức xạ trong công nghiệp, nông nghiệp và chuyển giao công nghệ với các nước ở châu Á
  • Ứng dụng polyme bức xạ đã được điều chỉnh tăng tốc cho sự phát triển nông nghiệp bền vững;
  • Tạo các đột biến gây ra do bức xạ để sàng lọc các vi sinh vật hữu ích có khả năng chịu mặn để giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu;

Đại diện Tiểu ban E, TS. Hoàng Nhuận đã trình bày các định hướng trong 2 năm tiếp theo như sau:

  • Tiếp tục nghiên cứu các ứng dụng gia tốc điện tử chùm electron để xử lý môi trường, tập trung vào xử lý các khí: VOCs, NOx, SOx, CO bằng bức xạ EB;
  • Tiếp tục nghiên cứu quan trắc phóng xạ môi trường, tập trung vào nhận dạng nhân phóng xạ trong các môi trường khác nhau;
  • Tiếp tục nghiên cứu các công nghệ xanh cho việc chế biến khoáng sản, tập trung vào các nguyên tố hiếm như chế biến quặng và nghiên cứu các công nghệ khoáng sản tiên tiến trong các lĩnh vực kinh tế xã hội và quản lý xử lý môi trường và nghiên cứu chu trình nhiên liệu hạt nhân.

Kết thúc Phiên bế mạc, Ban Tổ chức Hội nghị VINANST-XIII đã trao giải bài trình bày tốt nhất cho 7 báo cáo viên, và giải cho 7 báo cáo viên trẻ có báo cáo xuất sắc nhất. Ngoài ra, Ban tổ chức đã trao giải cho 2 báo cáo viên có báo cáo poster tốt nhất thuộc tiểu ban D1 và tiểu ban E. Theo số liệu tổng kết của Ban tổ chức, Hội nghị năm nay đã thu hút được rất nhiều các đại biểu tham dự, chất lượng các bài trình bày tại Hội nghị đã được nâng cao hơn so với các lần Hội nghị được tổ chức trước đây. Tất cả các bài trình bày đều được chuẩn bị bằng tiếng anh, một số tiểu ban đã hoàn toàn sử dụng tiếng anh để báo cáo. So với kỳ Hội nghị vừa được tổ chức vào năm 2017 tại Nha Trang, thì số đại biểu tham dự năm nay đã tăng thêm khoảng 20% (cao nhất trong tất cả các lần tổ chức Hội nghị), số đại biểu là người nước ngoài tăng lên 25%, số các bài báo cáo đăng ký trình bày tăng 10%, số bài trình bày của đại biểu nước ngoài tăng 30%.

Ban Tổ chức trao giải cho các báo cáo viên xuất sắc tại Hội nghị

Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ XIII (Vietnam Conference on Nuclear Science and Technology-VINANST) là một sự kiện khoa học quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử của đất nước trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực thúc đẩy khoa học công nghệ, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình.